Trang chủ Thiền môn xứ Huế Tranh-Tượng-Pháp khí Ruộng chùa Huế dưới thời các vua Nguyễn (1802–1945)

Ruộng chùa Huế dưới thời các vua Nguyễn (1802–1945)

145
0

Chùa ở Huế chỉ mới mấy trăm năm, nhưng có rất nhiều nét đặc trưng kiến trúc cũng như văn hóa đa dạng phong phú, mang một nét đẹp của xứ thần kinh cổ kính.

Từ khi nhà Trần gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân của ChamPa (1306), đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và truyền ngôi cho các chúa Nguyễn. Nơi đây hội tụ những nét văn hóa của nhiều vùng tạo nên nét văn hóa đặc trưng của Huế.

Trong xu thế tồn tại và phát triển của thời đại, các ngôi chùa buổi đầu xuất hiện đã nêu cao chủ trương “dĩ nông vi thiền” lấy việc cày cấy làm thiền. Các vị Tổ sư đã “tự thực kỳ thực” khai khẩn ruộng vườn để tạo ra kinh tế cho chính mình, nhằm tạo cho cuộc sống thiền môn mỗi ngày mỗi thêm sung túc.

Kinh tế đi vào chùa với ý nghĩa đích thực đúng với mục đích của nó. Kinh tế tức là “kinh bang tế thế, trị nước giúp nhà”. Cuộc sống tăng chúng cũng không phải hổ thẹn vì chính tăng lữ sống bằng sức, bằng mồ hôi của chính mình. Do đó, mới cảm thông được sự vất vả của quần chúng, gần gũi họ để rồi cảm hóa, dìu dắt họ trở về chánh pháp, cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn “lợi Đạo ích Đời”.

Về mặt sở hữu, ruộng chùa ở Thừa Thiên cũng được phân ba loại :

Tư điền, tư thổ tất nhiên thuộc sở hữu của tư nhân. Đối với nhà nước, thì ruộng đất của làng xã, xóm, họ, hay đoàn thể, tư nhân đều là tư điền tư thổ.

Công điền, công thổ là ruộng thuộc sở hữu của nhà nước để cho xã dân chia nhau trồng trọt theo một định lệ quân cấp và thời hạn do nhà nước ban hành.

Quan điền, quan thổ cũng là loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và quan chức nhà nước đứng ra tổ chức sử dụng hoặc khai thác, chứ không để cho xã thôn quản lý, mặc dầu những loại ruộng đó nằm trong địa phận xã thôn và cũng thường để cho xã dân khai thác nộp thuế.

Tất cả những sở hữu ruộng này được các chùa thu mua, các vua cấp, quan lại, hoàng thân, công tôn, địa chủ, phú hào mua, cúng cho chùa, ruộng công thuộc sở hữu của các ngôi chùa làng.

Cũng thế, khi một ngôi chùa ra đời lúc đó ruộng của chùa cũng ra đời. Chùa tư hay chùa làng ít hay nhiều cũng đều có ruộng. Chùa do dân làng lập lên thì dân làng trích ruộng công của làng để lo phần hương hỏa, cúng bái, sửa sang tu bổ.

Ruộng chùa được phân ra bốn loại như sau :

Ruộng chùa của vua cấp (ruộng chùa của nhà nước)

Ruộng chùa loại này thuộc các Quốc tự, các chùa này do triều đình xây dựng. Mọi thủ tục sinh hoạt, ruộng hương hỏa do vua cấp ban, để dân làng sản xuất, cùng tín đồ cày cấy thu hoa lợi cho công việc sinh hoạt của chùa.

Chùa Linh Mụ, chùa Diệu Đế, chùa Thánh Duyên (ở núi Tuý Vân – Vinh Hiền – Phú Lộc – Thừa Thiên Huế), chùa Giác Hoàng, chùa Pháp Vân (còn gọi chùa Khoai), Linh Hựu quán.

Hiện nay một số chùa không còn nữa, như chùa Giác Hoàng, Linh Hựu quán, chùa Giác Hoàng, bị Pháp chiếm để làm nơi làm việc của chúng. Linh Hựu quán Ngô Đình Khả chiếm dụng và xây dựng lên đó một nhà thờ công giáo. Còn chùa Pháp Vân hay hiện này chúng ta hay gọi tên quen thuộc là chùa Khoai, sau khi cuộc nổi dậy của Tu sĩ Nguyễn Văn Quý nên vua Tự Đức đã tịch thu tất cả ruộng đất và san bằng ngôi chùa này, nên không còn dấu tích, chỉ còn một bãi đất trống.

Khi nói đến các ngôi Quốc tự, đã nhiều tư liệu nói đến sự ra đời ruộng của các ngôi chùa. Khi chúng tôi thống kê, số lượng ruộng còn rất nhiều, nhưng trong giai đoạn các ngôi chùa được hình thành thì chưa xác định được số ruộng.

Quốc tự thì không có “Tam bảo tự điền”, chùa được Bộ Lễ quản lý, điều các Ngài được cấp sắc chỉ Tăng Cang của vua, được mời về trú trì, các khoản chi phí của chùa được trích ra từ ngân sách nhà nước. Theo Châu bản thì mỗi vị Tang Cang được cử trú trì các Quốc tự theo chiếu lệ mỗi tháng được “cấp 2 quan tiền và 1 vuông gạo” để lo sinh hoạt của chùa.

Ngày 27 tháng 9 năm Minh Mạng thứ 21.

Nội các tâu : (châu điểm). Quản thị vệ đã làm tổng kết các thứ chi thu vật hạng các lễ tụng kinh an vị một thất ngày đêm và trai tăng chẩn tế tại chùa Linh Hựu và chùa Giác Hoàng trong tháng 7 và tháng 8 năm nay. Thành lập 3 bản xin khai tiêu…[1].

Những việc chi tiêu các Quốc Tự được Bộ Lễ chi tiêu và thông qua nhà vua, ruộng đất vẫn có, do các Thái hậu, Hoàng hậu, Công tử, Công chúa cúng cho chùa, cộng thêm sự cúng dường của thập phương nhân dân, tiền bạc dư ra, các Ngài lấy tiền đó để mua ruộng.

Khế ước của chùa Diệu Đế cho thấy : Ở xã Hội An có họ Hoàng đã bán ruộng cho chùa, khế ước này nói rõ việc ruộng đó :

“Ngày 22 tháng 5 Bảo Đại năm thứ 4 (1929).

Xã Hội An, phái nhì họ Hoàng trưởng tộc Hoàng Vịnh, Hoàng Truyền, Hoàng Cát, Hoàng Bá, Hoàng Tuy, Hoàng Ngô cùng cả họ..

Chiếu theo thuế của đất canh tác,  nay lập văn bản để  bán ruộng tư của họ ở  ngoài đồi Hang  một sở gồm hai sào, sáu thước (phía đông cận  bổn xã ruộng ở giữa của Hoàng Văn Thụy, Hoàng Văn Khoa bổn xã, phía tây cận ruộng của Hoàng Thủ Giai, phía nam cận ruộng của Hoàng Văn Mão, bắc cận ruộng của Hoàng Văn Tài).  Phần canh tác của Hoàng Nái có một sở 2 sào 2 thước. Phần canh tác của Hoàng Văn Bảo lại nằm ở giữa Đồi Hang một sở gồm 1 sào, 1 tấc. Phần  canh tác của Hoàng Nái có 1 sở gồm 8 sào 12 thước 3 tấc. Phần canh tác của Hoàng Nái có  một sở gồm 2 sào 4 thước. Phần canh tác của Hoàng Nái có  một sở gồm 2 sào 2 thước. Phần canh tác của Hoàng Nái có  một sở gồm 3 sào 3 thước, 3 tấc. Phần canh tác của Hoàng Văn Biều có  một sở gồm 1 sào 1 thước 3 tấc. Phần canh tác của Hoàng Văn Biều lại ở chổ Thẩm Di có một sở gồm 7 sào. Phần canh tác của HoàngNái  gồm ba xứ  cộng lại thực điền gồm 3 mẫu 2 thước. Đông tây bốn phía y như trong sổ ghi chép của xã, ruộng này thường  đã bỏ hoang nhưng có thể ngăn chia  trở lại để canh tác, nạp tô.  Hoàng Hương Luận cùng vợ là người trong xã coi việc thờ cúng đã bán đứt, gốc  mua với giá 58  tiền chẵn, giao nhận đầy đủ để tu sữa từ đường để lo việc thờ tự, tự lập khế ước giao ruộng này cho người mua, chiếu theo lệ canh tác, quản lý. Làm vật nhỏ truyền cho con cháu, sau này không được chuộc lại…[2].

Đây là khế ước bán ruộng của Họ Hoàng cho chùa Diệu Đế viết vào năm Bảo Đại thứ 4 (1929),

Một văn bản của chùa Diệu Đế có đoạn : “Nguyên chùa Diệu Đế là một thắng cảnh di tích lịch sử của nhà nước, hiện có 6 mẫu 3 sào ruộng hương hỏa tọa lạc tại thôn Thanh Đàm, xã Phú Thanh, huyện Hương Phú, tỉnh Bình Trị Thiên”.

Trong “Hàm Long sơn chí” viết về việc  Đại sư Tâm Truyền tăng cang mua ruộng để tiến cúng cho chùa Diệu Đế :

"Ất Mùi Thành Thái năm thứ 7, tháng 5 mùa hạ. trú trì chùa Diệu Đế cúng ruộng hương hỏa, tháng này Đại sư Tâm Truyền trú trì Chùa Diệu Đế mua ruộng hương hỏa ở hai xứ ấy gồm có 1 mẫu 8 sào, tọa lạc tại địa phận của xã Khê Xá, huyện Phú Vang, với giá tiền mua ba ngàn ba trăm quan, tiến cúng ruộng hương hỏa ấy cho bổn tự, cộng trước sau lại ruộng đất các khoảnh được 41 mẫu, 3 sào, 5 thước 5 tấc".

Ngài Viên Thường trú trì chùa Thiên Mụ xin lấy lại ruộng của chùa Pháp Vân:

Tháng 11 Thiệu Trị năm thứ 5. Nguyễn Văn Thường tức Viên Thường chùa Pháp Vân, trú trì chùa Thiên Mụ thưa rằng : năm xưa chùa Pháp Vân có 21 mẫu ruộng Tam Bảo quan tự điền tại xứ Bào Hạm xã Khê Xá… xét qua lời khai của Phạm Văn Tuyển lý trưởng xã Khê Xá và lão nhiêu Võ Văn Trinh thì trong địa bộ xã này nguyên có 130 mẫu 1 sào 9 thước 6 tấc 2 phân ruộng quan điền, trong đó án chuẩn ruộng phế canh lưu hoang là 69 mẫu 6 sào 8 thước 1 tấc. Hiện nay ngoài số các chủ đã trưng lại, số thật trưng còn 60 mẫu 5 sào 1 thước 5 tấc 2 phân, trong đó ruộng xứ cây đa 9 mẫu 4 sào… Đến năm Minh Mạng thứ 12 trú trì chùa Pháp Vân là Nguyễn Văn Thường đệ đơn lên phủ thừa nói 26 mẫu ruộng xã Thần Phù và 21 mẫu ở xứ Bào Hạm thuộc của chùa nên xin lại. Qua đối chiếu thì 26 mẫu ruộng ở xã Thần Phù nguyên bộ hiện đề là Tam bảo quan điền, dưới ghi chú : Cựu Pháp Vân tự Tam bảo điền tùng trưng, còn 21 mẫu xứ Bào Hạm chỉ đề quan điền không có 2 chữ Tam Bảo… xét lại tờ đơn thưa của Nguyễn Văn Thường tháng 12 năm Minh Mạng thứ 12 nói chùa Pháp Vân trước đây là có 47 mẫu Tam Bảo tự điền, tọa lạc tại địa phận xã Thần Phù 3 xứ cửa Làng, Cá Tiền và Cồn Chùa là 26 mẫu, tại địa phận xã Khê Xá và Bào Hạm là 21 mẫu,  tất cả bộ tịch điều có ghi chú rõ ràng. Đến thời Ngụy Tây chùa y hư nát tăng đồ phiêu tán, ruộng ấy từ đó đến nay 2 xã này làm đơn trưng canh. Nay chùa y trùng tu thờ phụng lại, xin đòi lí dịch 2 xã ấy đến phủ xét rõ khai giao ruộng này lại cho chùa y nhận lãnh canh trưng nạp thuế để lo việc hương khói…[4].

Ruộng các chùa có rất sớm, ngôi chùa ra đời thì ruộng ấy xuất hiện. Cũng vậy, khi qua thời gian chiến tranh ruộng bị mất đi hay chùa bị hưu nát, tăng chúng ly tán nên ruộng được các xã trưng thu, sau đó được nhà chùa xin lại.

Nhìn chung, ruộng chùa theo loại ruộng Quốc tự cũng phát triển rộng rãi trên tất cả vùng đất Thừa Thiên Huế.

Chúng tôi thấy tư điền ở miền Nam rất lớn. Trong thời Nguyễn ở miền nam được khích lệ sự khai hoang, lập làng sinh ra các địa chủ lớn. Những người này có quyền lực và có nhiều ruộng đất. Những người nông dân nghèo khổ đến vùng đất mới không đủ sức tự khai phá, phải dựa vào tầng lớp giàu có, biến thành tá điền. Một bộ phận ruộng đất bé nhỏ của nông dân không có thể phát triển, trái lại ngày càng thu hẹp, thông thường sau khi vay nợ nhà giàu để khai khẩn, mảnh ruộng nhỏ nhoi của nông dân sướm muộn gì cũng rơi vào tay địa chủ. Bộ phận ruộng đất tư hữu của người nông dân bị tàn lụi dẫn đến tình trạng nông dân lưu tán. Đó là lý do khiến vua Minh Mạng đặt ra chế độ công điền ở Nam kỳ 1837, duy trì số người nộp thuế và đi lính cho triều đình.

Tình trạng này ở Thừa Thiên Huế và miền trung thì không xảy ra, bởi ruộng đất ở đây thuộc dạng công điền chiếm đại bộ phận, tư điền chỉ chiếm một phần nhỏ. Không có các địa chủ lớn, để chiếm ruộng đất lớn như miền Nam, chùa Quốc tự chỉ 100 mẫu là nhiều, không thuộc loại địa chủ bóc lột tô thuế, chỉ giao ruộng cho nông dân hay Phật tử để thu hoa lợi sinh họat và xây dựng chùa chiền, không như dạng bóc lột.

Có một số ruộng của Quốc tự cũng thuộc dạng công điền, ruộng được nhà nước cấp, ban và được sự quản lý của làng xã, có lúc giao hẳn cho làng xã cấp chia cho nông dân, cũng không được mua bán. Khi cần thiết nhà nước cũng có thể sử dụng đất công của làng xã, của Quốc tự, có bồi thường hoặc miễn thuế.

Ruộng chùa của hoàng tử, công chúa và quan lại cúng dường

Ruộng loại này do công tôn, công chúa sau khi quyên góp trùng tu chùa, sau đó cúng phần ruộng của mình cho chùa. Chùa Từ Hiếu do các thái giám trong cung xây dựng, ruộng đất cũng do thái giám cúng dường để lo thờ tự và kỵ giỗ khi các vị thái giám qua đời. Chùa Đông Thuyền ra đời do Hòa Thượng Tế Vỹ, khai sơn năm 1767. Do chiến tranh loạn lạc ngôi chùa đã tiêu điều, sau đó được Công chúa Ngọc Cơ con thứ 10 của vua Gia Long cùng các cung phi phát tâm trùng tu lại năm 1842.

Chùa Từ Hiếu, Đông Thuyền, chùa Tra Am, chùa Ba La Mật, Long Quang, Từ Ân, Kim Quang. Các chùa này do các vị Sư khai sơn nhưng qua chiến tranh không được trùng tu sau đó nhờ các quan lại, cung phi mỹ nữ quyên góp cùng nhau trùng tu, cũng có những ngôi chùa được lập nên bởi các quan lại, công tôn, công chúa.

Bia “Sắc tứ Từ Hiếu tự” mặt sau của bia được ghi rõ những người cúng tiền bạc và ruộng để xây dựng chùa Từ Hiếu có đoạn sau :

Tự Đức năm thứ 19 Bính Dần (1866) tháng mạnh xuân, ngày tốt, các ông thái giám, cung giám viện kính cẩn tục ghi vào bia.

Trộm nghĩ đời người như giấc mộng… tiền triều[5] có tài nhân[6] Phan Thị Quý, điển nô[7] Nguyễn Đức, thống sự[8] Đặng Thị Khuy đồng cúng ruộng 1mẫu 2 sào tại xã Thanh Lam. Chùa Hoằng Nhơn ở Đại Nội có ni cô Lê Thị Chuyên cúng ruộng 4 mẫu 5 sào tại địa phận Thần Phù. Kiểm sự[9] Trần Khoa, Đặng Tín, điển nô Đỗ Thị đồng cúng ruộng 1 mẫu 5 sào. Thục nhân[10] Nguyễn Thị Mão, thừa sự[11] Trần Thị Tuyên, Nguyễn Ngọc Nghiêm, vợ chánh của Lãnh binh là Lê Thị Tùng, đệ tử Đặng Thị Thảo đồng cúng 2 mẫu tại xã Thần Phù. Nguyên kiểm sự Hoàng Trạc cúng ruộng 6 sào. điển nô Trần Đạt cúng ruộng 1 mẫu 6 sào.

Tiên triều cung nga[12] Nguyễn Địch Thị Khế cúng ruộng 5 sào. Quản sự[13] Đỗ Thị Thìn cúng ruộng 1 mẫu tại xã Triều Thủy. Thừa tá[14] Hoàng Chánh, đệ tử Nguyễn Thị Bình, vợ chính của lang trung[15] là bà Bùi Thị Ân đồng cúng ruộng 1 mẫu 5 sào tại xã Thanh Lam. Thừa tá Đoàn Tùy, phụng nghi[16] Hồ Xuyên, thừa tá Lê Trung, Trịnh Sĩ, Trần Giác, thừa vụ[17] Phạm Thưởng cúng ruộng 01 mẫu tại xã Thanh Lam. Nguyên hộ nô Phùng Dưỡng cúng ruộng 01 mẫu 2 sào tại xã Dương Xuân. Hộ nô Nguyễn Cư, Nguyễn Hữu cúng ruộng 01 mẫu 4 sào tại xã Dương Xuân Thượng. Võ Kế, Trần Tâm cúng ruộng 6 sào tại xã Dương Xuân. Kiểm sự Hoàng Thạch cúng ruộng 5 sào. Hộ nô Nguyễn Đa, cung sự Bùi Nhuận cúng ruộng 5 sào tại xã Triều Thủy. Nguyên thừa tá Lê Cúc, cung giám Nguyễn Lai, Ngô Hiệp, Nguyễn Đê, Bùi Báo, Đào Độ, Lê Lượng, Trần Phước cúng ruộng 4 sào tại xã Dương Xuân. Đoàn phi tiền triều cung nhân Nguyễn Thị Hương, Hoàng Thị Tĩnh, Nguyễn Thị An, Lê Thị Lịch, tùng sự[18] Nguyễn Thị Thứ, tùy sự[19] Thị Thóa, tùng sự Nguyễn Thị Thiện, đệ tử Nguyễn Thị An, trú trì chùa Từ Hiếu ngài họ Lê, thống sự Nguyễn Thị Thóa, Ngô Thị Sanh, Nguyễn Thị Thu đồng cúng ruộng 01 mẫu 2 sào tại xã Thần Phù…

Năm Ất Dậu[20], giữa mùa xuân ngày tốt hưng công tu bổ, kính ghi[21].

http://www.diendan.org/sang-tac/con-trau-va-chu-tu/contrau-trongquan.jpg

Sau khi trùng tu và số ruộng được cúng để chùa lo hương hỏa của các quan công là 21 mẫu 2 sào, tọa lạc tại các xã như Thần Phù, Dương Xuân Thượng, Dương Xuân Hạ, Triều Thủy, Thanh Lam. Bia này dựng năm 1885 năm nguyên niên vua Hàm Nghi.

Ngọc Cơ là công chúa của vua Gia Long, sau khi chồng của bà là phò mã Nguyễn Huỳnh Thành mất 1832, sau đó hai con của bà cũng mất. Nên năm 1838 công chúa xuống tóc xuất gia thọ sa di giới với Hòa Thượng Tánh Không, được đặt pháp danh Hải Châu.

Năm 1842, với tư cách là hội chủ của chùa, Ngọc Cơ đã cùng mẹ là Hữu cung tần Nguyễn Đình Thị Vĩnh, hai dì là Phan Văn Thị Hạc, Đặng Công Thị Lục và hai bà chúa em hoàng nữ thứ 16 và hoàng nữ thứ 18, cùng các phi tần trong cung trùng tu lại ngôi chùa Đông Thuyền. Chú tạo đại hồng chung năm 398 cân. Sau khi bà mất, năm 1856 được vua Tự Đức tặng tước Định Hòa Thái Trưởng công chúa, tháp mộ được xây ở đông nam núi Ngự Bình,  trong mặt sau của bia Trưởng công chúa Ngọc Cơ có ghi:

Nguyên đặt tự điền, tự sản, ghi sau đây.

Người kế tự trông coi một thửa đất từ đường 5 mẫu 4 sào 9 thước và mua ruộng tại xứ Bộ Hóa, gồm 5 mẫu giá tiền là 900 quan, đến Thiệu Trị thứ 7 (1847) xây dựng để phụng thờ. Chia thửa đất này làm 5 phần, trong đó 4 phần giao cho Sư thờ cúng Tam Bảo hàng năm và một phần lo việc hương hỏa ở từ đường. Các lễ tiết hàng năm đã có lời di chúc và ghi ở mặt sau văn bia từ đường.

Hai làng Dương Xuân Thượng, Dương Xuân Hạ trông coi số ruộng và số tiền 5100 quan, trong đó 2700 quan mua số ruộng là 20 mẫu 5 sào 7 thước 5 tấc, tại xứ Cồn Dương thôn Đầm Chài (Thanh Đàm) và 2 thửa ở xứ Ba Lùng Hạ, Khu Đập làng Lương Văn…[22] Năm Thiệu Trị thứ 7, Đinh Mùi (1847) ngày lành tháng 6 lập.

Cuốn “Từ Quang nhất bổn” nói đến ruộng chùa Đông Thiền có đoạn thế này:

Thành Thái năm thứ 14 (1902) ngày 22 tháng 6.

Nay thừa lệnh của Hội đồng để biên chép, kể lại việc chùa Đông Thiền. Trước kia có mua tư điền 10 mẫu cùng với chùa Từ Quang. Gốc là mua tư điền ước khoảng 2 mẫu 6 sào ở 2 xã Hòa An và Quy Lai, tọa lạc tại địa phận thôn Thanh Đàm (Đông Thiền 8 mẫu 6 sào lẻ, Từ Quang 2 mẫu 9 sào lẻ)…[23].

Khi tìm hiểu ruộng chùa Đông Thiền, trích lục của chùa hiện còn rất nhiều, chúng tôi thống kế ruộng của chùa ở Cư Chánh có 16 bản trích lục cấp năm 1936, số ruộng 5 mẫu 2 sào 9 thước. Ở Dương Xuân Thượng số ruộng 8 mẫu 9 sào, gồm có 27 bản trích lục, được cấp năm 1936. Ruộng ở Lương Văn có 11 mẫu 5 sào 4 thước 5 tấc, có 60 bản trích lục cấp năm 1936.

Cùng với chùa TừHiếu, chùa Đông Thuyền, chùa Ba La Mật một trong những ngôi chùa được sự hộ trì mạnh mẽ, về việc trùng tu và phát triển ruộng của chùa. Công điền, tư điền rất nhiều, được nhiều quan lai, nông dân ủng hộ.

Các trích lục ruộng hạng nhất, hạng nhì, hạng ba, còn ghi đầy đủ. Ruộng nằm xứ, ruộng khô, ruộng nước, tốt xấu, nộp tô thuế cho nhà nước phân định đầy đủ rõ ràng.

Một trong những ngôi chùa quan đó, chúng tôi thấy chùa Ba La Mật do dòng họ Nguyễn Khoa dựng nên tại làng Phú Thượng, huyện Phú Vang. Trong đó trích lục và khế ước của chùa này còn khá nhiều. Chỉ đưa ra một vài số liệu của các khế ước như sau:

"Tự Đức năm thứ 31 (1878), ngày 7 tháng 12.

Xã Đường Anh[25], tổng Đường Anh, huyện Phú Vang, Ngô Thanh khấu đầu.

Thừa lệnh trên để phê chuẩn và làm bằng này. Sự việc là năm trước có bà cô họ ngoại là Nguyễn Hữu Lăng hứa cho mẹ của bà là Thị Dậu ruộng 4 sào 9 thước 5 tấc và bà dì là Thị Phong ruộng 5 sào. Cộng lại bằng nhau là 9 sào, 9 thước 5 tấc tọa lạc tại xứ Cồn Dương của xã… thừa lệnh, Ngô Thanh điểm chỉ, viết văn bằng Ngô Thanh tự ký.     

Thời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ruộng của các chùa quan được tăng lên nhiều cả tư điền lẫn công điền. Do thế, người nông dân của vùng Thừa Thiên Huế, có điều thuận lợi hơn, cuộc sống được điều chỉnh tốt hơn, không lo mất mùa hay được mùa, được mùa thì đầy đủ, sung túc, mất mùa chùa cũng không đòi hỏi phải nộp cho đầy đủ.

Ruộng đất các ngôi chùa sau giai đoạn thực dân Pháp thống trị bị mất dần, bị thực dân chiếm, các quan lại có uy quyền chiếm đoạt, lấy bằng nhiều cách khác nhau, cùng các địa chủ thông giao thân tín của quan lại địa phương chiếm dụng không hoàn trả.

Ruộng chùa tư (Ruộng chùa Tổ, chùa do các vị Hòa Thượng lập nên)

Ruộng này có nhiều loại khác nhau, do các vị sư trú trì mua về, hoặc do các tín đồ Phật giáo có tiền có của mua cúng, hoặc do các hoàng hậu, công chúa, quan lại cúng dường. Chùa tổ do các sư tăng khai sáng ra và lập nên, xây dựng chùa nhờ sự đóng góp, cúng dường của thập phương tín đồ.

Như chùa Báo Quốc, chùa Quốc Ân, chùa Linh Quang, chùa Từ Đàm, chùa Thuyền Tôn, chùa Tường Vân, chùa Trúc Lâm, chùa Hoằng Quang, chùa Từ Quang, chùa Kim Tiên, chùa Hải Đức, chùa Quy Thiện, chùa Quảng Tế…

Trong “Hàm Long sơn chí” có đoạn :

"Gia Long năm thứ 10, Tân Mùi (1811). Nhận lệnh chỉ dụ, cấp cho 41 mẫu ruộng, năm nay phụng chỉ. Mua tư điền 30 mẫu lẻ, đất ương giống 11 mẫu lẽ, tọa lạc tại địa phận xã An Nhơn, huyện Đăng Xương, đem cấp cho chùa làm ruộng Tam Bảo. Chuẩn giá điền thổ giao cho chùa lo việc hương hỏa đầy đủ số ruộng là 22 mẫu. Lại có Nguyên Đổng LýCữu Ngọc Hầu cúng ruộng 3 mẫu 4 sào. Cô không tên cúng 2 mẫu ruộng. Ni cô pháp danh Tánh Tâm tự Thiện Nhàn cúng 100 quan. Vợ chồng tên Chú Yến cúng ruộng 1 mẫu để ký thác phần mộ thần vị cha mẹ của họ thờ ở chùa. Ruộng đất trước sau bao gồm 69 mẫu 4 sào lẻ[27].

Trong cơ cấu kinh tế thời phong kiến, nền nông nghiệp lúc nào giữ vai trò hàng đầu. Do đó, kinh tế chùa phát triển sau khi chùa được trùng tu, ổn định mọi sinh họat của chùa, tạo nên một ngôi chùa hưng thịnh, phát triển cả nội dung lẫn vật chất, làm cơ sở vững chắc cho Phật giáo tồn tại.

Năm Gia Long thứ 10, chùa Báo Quốc có 69 mẫu 4 sào ruộng Tam Bảo.

Đến năm Thiệu Trị thứ 2 Nhâm Dần (1842), ruộng hương hỏa của chùa Báo Quốc được cải cấp lại chỉ còn 31 mẫu lẽ.

Tự Đức năm thứ 16 Quý Hợi (1863) ruộng đất chùa được cải cấp lại ; Thực điền 11 mẫu 3 sào 9 thước lẽ, đất 20 mẫu 6 sào 3 thước lẽ, tổng cộng 31 mẫu 9 sào 12 thước lẽ.

"Tự Đức năm thứ 31, Mậu Dần (1878) mùa hạ tháng 4, công chúa Phú Mỹ cúng đất 3 sào lẽ (đất này tại phủ của Trấn Định quận công, giá tiền là 150 quan).

Tự Đức năm thứ 33, Canh Thìn(1880) mùa hạ tháng 4, tùng sự Nguyễn Ngọc Nghiêm… cúng ruộng 1mẫu lẽ (ruộng tại địa phận xã Thần Phù, giá tiền 900 quan).

Chùa Tường Vân, xã Thủy Xuân thành phố Huế, tìm được 4 tờ khế, 2 tờ cùng năm Thành Thái thứ 8 (1896), ngày 26 tháng 6 có chung số ruộng được chùa mua tại làng Dưỡng Mông, thôn Thượng Giáp của đội trưởng, tốt trưởng Dương Viết Điền cùng vợ và con của ông ta với số ruộng 2 sào 8 thước 1 tấc với số tiền là 400 quan. Cùng khế ước năm Duy Tân thứ 6 (1912) ngày 19 tháng 11. Năm Khải Định thứ 9 (1924), ngày 25 tháng 7 cùng có chung số ruộng như các khế ước của năm Thành Thái.

Bản khế ước chung ruộng của chùa Quốc Ân được bán cho ba chùa là Linh Quang, Quảng Tế và Phổ Quang :

Thành Thái năm thứ 17 (1905) ngày 20 tháng 6.

Thừa lệnh Hội Đồng phụng chép việc dựng đứng mốc giới ruộng của xứ này. Chùa Linh Quang người đứng đầu ghi chép Tôn Thất Bá, trú trì Lê Nguyên Cát v.v thừa lệnh kể lại rằng vào năm Thành Thái thứ 12, phụng mạng thu  mua tư điền của chùa Quốc Ân là 9 mẫu. Chùa Linh Quang 6 mẫu, chùa Phổ Quang 2 mẫu, chùa Quảng Tế 1 mẫu, phân đều thuộc địa phận xã Thần Phù… Điền chủ là Lê Nguyên Cát nên so sánh đối chiếu các khế ước cũ cho rõ ràng các tiêu chí đông tây xứ sở, Hội đồng so sánh  2 xứ đó, hiện tại thực điền được 9 mẫu, dựng cột mộc giới đã hoàn thành, chiếu nhận số ruộng không được xâm phạm các xứ khác, biên chép tính toán đầy đủ để lại về sau.

Thừa lệnh triều đình nay phụng chép. Tính.

Ở xứ Cự Trù nhận số lượng ruộng thực 5 mẫu :

Một sở… thực điền 9 sào mỗi gốc cắm một mộc giới, trong các mộc giới được khắc chữ ruộng chùa Linh Quang.

Một sở… thực điền 1 mẫu 4 sào mỗi gốc cắm một mộc giới, trong các mộc giới được khắc chữ ruộng chùa Linh Quang.

Một sở… thực điền 1 mẫu 7 sào mỗi gốc cắm một mộc giới, trong các mộc giới được khắc chữ ruộng chùa Linh Quang.

Một sở… thực điền 3 sào 8 thước mỗi gốc cắm một mộc giới, trong các mộc giới được khắc chữ ruộng chùa Linh Quang.

Một sở… thực điền 6 sào 7 thước mỗi gốc cắm một mộc giới, trong các mộc giới được khắc chữ ruộng chùa Linh Quang.

Ở xứ Cửa Lang nhận số ruộng thực 4 mẫu :

Một sở… thực điền 2 mẫu mỗi gốc cắm một mộc giới, trong các mộc giới được khắc chữ ruộng chùa Phổ Quang.

Một sở… thực điền 1 mẫu mỗi gốc cắm một mộc giới, trong các mộc giới được khắc chữ ruộng chùa Quảng Tế.

Một sở… thực điền 1 mẫu mỗi gốc cắm một mộc giới, trong các mộc giới được khắc chữ ruộng chùa Linh Quang[29].

Mỗi mốc có đề tên của chùa, ruộng của chùa Linh Quang 6 mẫu, chùa Phổ Quang 2 mẫu, chùa Quảng Tế 1 mẫu. Ruộng này của chùa Quốc Ân được bán lại cho ba chùa.

Ngoài ruộng do các vị thí chủ cúng dường, chùa còn khẩn hoảng để tạo thêm ruộng, như chùa Thuyền Tôn. Theo thống kê ruộng đất của chùa thì hầu như ruộng đều do Đoàn Tài Hậu cúng tổng cộng là 73 mẫu 9 sào 2 thước 2 tấc 1 phân.

Số ruộng được các quan cúng qua các năm sau :

Chính Hòa năm thứ 10 (1689), ở làng Lê Xá huyện Phú Vang với diện tích 5 sào. Chính Hòa thứ 17 (1696), ở làng Thần Phù với diện tích ruộng 2 mẫu.

Vĩnh Thạnh năm thứ 5 (1710), làng Thần Phù, huyện Phú Vang ruộng diện tích là 5 mẫu. Vĩnh Thạnh thứ 6 (1711), làng Thần Phù, huyện Phú Vang có ba sở ruộng tổng cộng 5 mẫu 6 sào. Vĩnh Thạnh thứ 10 (1715), thôn Thần Phù, huyện Phú Vang một sở ruộng là 5 mẫu.

Bảo Thái năm thứ 7 (1726), có tất cả là 6 sở ruộng ; a, 2 mẫu. b, 3 mẫu. c, 1 mẫu 5 sào. d, 1 mẫu 5 sào. e, 1 sào 5 thước. f, 5 sào.

Cảnh Hưng năm thứ 4 (1743), xã Thần Phù, huyện Phú Vang một sở đất ruộng 10 mẫu. Cảnh Hưng năm thứ 5 (1744), huyện Phú Vang, xã Thần Phù ruộng 2 sở ; a, 7 mẫu. b, 8 mẫu 6 sào 1 thước.

Ngoài số ruộng do Đoàn Tài Hầu cúng còn có các tín chủ khác cúng, như Gia Long năm thứ 11 (1812) bà Lê Thị Bích cúng ruộng 1 mẫu tại xã Thần Phù.

Trong Bi ký chùa Thuyền Tôn có nói, Tháng 8, tấu xin ruộng đất Tam Bảo, (ở hai huyện Phú Vang và Hương Trà, hơn 70 mẫu) nhận lại để phụng tự luôn (lúc đầu quân Tây Sơn lấy đem cấp cho các nha ở huyện Phú Lộc), nhờ có thượng thư Bộ hộ Tích Thiện Hầu tấu đạt lên vua.

Căn cứ theo bản trích lục của chính phủ Đại Nam, ruộng đất thời Pháp thuộc của chùa đã mất đi rất nhiều, ruộng của chùa Thuyền Tôn những thập niên 30 của thế kỷ XX, còn lại số ruộng với diện tích là 367.068 (36 mẫu 7 sào) ở những địa phương khác nhau.

Trong tinh thần nhập thế của Phật giáo Huế, gắn với sự phát triển của ruộng đất chùa. Văn hóa Phật giáo gần gũi với cuộc sống mộc mạc của người dân quê, tín ngưỡng Phật giáo hòa nhập cùng tín ngưỡng truyền thống của người dân ở nông thôn, “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”, con người sinh ra và lớn lên ai cũng có quê hương, ai cũng có gia đình. Vì thế, nơi đó là chổ gắn kết tình yêu và cuộc sống của họ mãi mãi.

Các chùa ruộng đều phân bố rộng ở các huyện của Phủ Thừa Thiên, ruộng đóng vai trò quan trọng cho chùa phát triển, các Tăng cùng gần gũi với cuộc sống đời thường, cùng gần gũi người nông dân, cùng làm việc sản xuất. Tạo dựng cuộc sống ổn định mà còn nhập thế cứu dân trong tinh thần thượng cầu hạ hóa, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt cao thấp lớn nhỏ mà chỉ biết đem lại hạnh phúc cho mọi người, mọi loài trong cuộc sống hiện tại cũng như tương lai an lạc hạnh phúc.

Ruộng do làng xã trích cúng

Truyền thống làng xã của Việt Nam, làng nào cũng có chùa và đình làng, cây đa, bến nước. Cho nên, con người chúng ta dù có đến sinh sống nơi nào cũng không thể không lập nên một ngôi chùa làng và đình làng, gắn bó ăn sâu vào trong mỗi con người Việt Nam.

Sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa (1558) các quan lại, tù binh, nhân dân cùng vào với chúa, được chúa khuyến khích khai hoang lập làng, cũng từ đấy cuộc sống của họ cần có một nơi để họ nương tựa trong tâm thức của họ. Chính đó là nguyên nhân cho sự ra đời của các ngôi chùa làng ở xứ Thuận Hóa này. Các ngôi chùa làng xuất hiện rất sớm, có những ngôi chùa xuất hiện sớm hơn các ngôi chùa tổ, hay chùa của vua, quan.

Chùa Hà Trung xuất hiện rất sớm, trước khi ngài Nguyên Thiều đến trú và lập bia của ngôi chùa này, thì trước đó là một ngôi chùa làng đã có rồi, hay chùa làng La Chữ cũng xuất hiện rất sớm từ năm 1427 khi Lê Lợi khởi nghĩa đánh quân minh thì chùa làng này được ghi lại của gia phổ họ Hà đến rất sớm ở đây. Chùa Bác Vọng Tây, hay chùa Hà Khê cổ tự, chùa Quang Đức làng Đốc Sơ cũng một trong những ngôi chùa làng nổi tiếng ở Thừa Thiên Huế.

Nói chung, Thừa Thiên Huế tất cả các làng đều có chùa làng và đình làng, có những làng chùa và đình gần nhau, tạo nên một nét đặc biệt của các làng xã ở Thừa Thiên Huế.

Cũng thế ruộng được dân làng trích ra từ ruộng công của làng xã để lo việc hương hỏa, cúng tế rằm tháng 7 Vu Lan, hay để sửa chùa khi bị thời gian mai một.

Chùa làng ngày xưa và ngày nay thường gọi là chùa Khuôn trên dưới từ 200 đến gần 300 ngôi chùa. Khi thống kê ở Thừa Thiên Huế có tất cả là gần 360 ngôi chùa từ chùa Vua, chùa quan, chùa tổ, chùa làng, chùa khuôn hội.

Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), sau khi cúng dường tiền đúc chuông cho chùa làng Lai Thành, ông Đĩnh đã mua ruộng để cúng cho làng, làm ruộng hương hỏa cho chùa làng.

Trong văn bia công đức làng Phước Tích, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền : Vào năm Thành Thái thứ 9 (1897), người làng là Hồ Thị Quỳnh, đã xuất tiền 1 quan, lúa 3 thăng cấp cho dân phu, để dân tình nguyện dựng bi ghi lại. Chùa làng này không có ruộng tam bảo tự điền, nên bà đã xuất tiền của cho người dân tu sửa lại chùa và ghi vào bia công đức.

Chính sách ruộng đất của làng xã; ruộng đất giao cho dân làng sử dụng lâu dài sẽ được chia làm ba loại với tỉ lệ tùy thuộc tình hình cụ thể của địa phương. Loại thứ nhất được bình quân theo nhân khẩu để đảm bảo mục tiêu cuộc sống bình ổn cho dân làng, loại thứ hai được chia bình quân theo lao động dể đảm bảo chính sách dân số, loại thứ ba dùng để đấu thấu, nhằm kích thích sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn.

Ở làng xã, ruộng chùa thuộc loại công điền, công điền công thổ thuộc sở hữu của nhà nước, trao cho xã thôn để quân cấp cho dân xã cùng cày cấy theo đúng định lệ chung.

Các khế ước, khoán ước của chùa làng không có, ruộng đó là ruông công của làng do làng trích, được con dân trong làng cày cấy theo vụ, theo phiên đem nộp hoa lợi cho chùa, chùa làng chi có 3 sào, cày cấy theo hai vụ, được dân làng chia theo phiên sản xuất.

Chùa làng là nơi quy tụ tín ngưỡng tâm linh của một mỗi làng, cho nên đó là một trung tâm để đưa con em của làng trở về với cội nguồn của làng xã việt.

Nói đến Huế không phải là nói đến thành phố Huế, nơi có kinh đô của nhà Nguyễn (1802 – 1945), có lẽ ta nên nghĩ rằng khái niệm Huế để chỉ Hóa Châu đời Trần và Thừa Thiên thời Nguyễn, cho đến hiện nay cũng là Thừa Thiên Huế. Một sự minh chứng đơn giản một người ở vùng nào trong tỉnh Thừa Thiên Huế đến ở miền Bắc hoặc ở miền Nam, thì người ta thường gọi ; “người Huế, nói giọng Huế, tiếng Huế”… Khi nói đến “Phật giáo Huế” chúng tôi cũng dùng từ Huế với ý nghĩa của không gian rộng đó.

Phật giáo Huế có những nét đặc trưng cùng đóng góp với xã hội, xây dựng nên một xã hội ổn định, phát triển: những đóng góp thuộc phạm trù nhân văn qua tiến trình thời gian để hình thành “con người Huế” gồm có tâm thức, tình cảm, nếp sống thường nhật và thế ứng xử của người Châu Hóa ngày xưa và người Huế hiện nay.

Chùa Huế là một đặc trưng của vùng miền, chùa Huế là một “cảnh nhà vườn”, đến chùa là có cảnh màu xanh của thiên. Màu xanh ở vườn chùa Huế và cảnh chùa Huế tạo nên môi trường sinh thái hấp dẫn, hài hòa giữa con người và thiên nhiên, nhân sinh quan và vụ trụ quan luôn gắn kết chặt chẽ cùng tồn tại và phát triển trong những ngôi chùa cổ kín, rêu phong tạo nên một vẻ đẹp thầm lặng, kín đáo của đất thần kinh.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc, ruộng đất bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng của lịch sử, các triều đại phong kiến lúc nào cũng chú trọng giải quyết vấn đề ruộng đất và nông dân.

Do đó, khi nghiên cứu ruộng chùa ở Thừa Thiên thời nhà Nguyễn, chúng tôi cố gắng sưu tầm địa bạ, khế ước, khoán ước, giấy tờ liên quan, khảo cứu của nhà nghiên cứu chùa Huế, qua các bi ký của các chùa hiện còn lại, để đánh giá, thống kê, phân tích đầy đủ hơn.

Tuy nhiên, trong vấn đề Tam bảo tự điền thuộc với nhiều loại như quan điền quan thổ, tư điền tư thổ, công điền công thổ. Ruộng đất của các chùa thuộc nhiều dạng sở hữu.

Phật giáo Huế đã đóng góp cho Phật giáo dân tộc những nét đặc sắc chung cho nhân loại, tạo nên một vẻ đẹp văn hóa chung cả vùng Huế trong quá khứ đến hiện tại và sẽ phát triển hơn nữa trong tương lai.
 

Chú thích:
 
[1] Lý Kim Hoa, Châu bản triều Nguyên, tư liệu Phật giáo, tr. 80. Nxb Văn Hoá Thông Tin. Hà Nội. 2003.
[2] Khế ước chùa Diệu Đế (bản chữ hán)
[3] Hàm Long sơn chí (chữ hán) tr 11, 12.
[4] Lý Kim Hoa, Châu bản triều Nguyên, tư liệu Phật giáo, tr. 221 – 222 – 223 – 224. Nxb VHTT, Hà Nội. 2003.
[5] Triều Vua trước.
[6]  Danh từ dùng cho vợ của Vua.
[7]  Quan giữ kho hàng vãi, lụa trong cung.
[8] Một chức của nữ giới trong cung.
[9]  Một chức vụ của quan thái giám.
[10  Phong hiệu của đàn bà, Đời Tống vợ của Thượng Thư mới được phong Thục Nhân, Đời  Minh vợ quan Tam phẩm, nhà Thanh phong theo chế độ của nhà Minh.
[11  Chức của các vị hầu hạ trong cung.
[12]  Danh từ để gọi vợ vua.
[13]  Chức của các vị hầu hạ trong cung.
[14]  Chức của quan thái giám.
[15]  Chức của một quan văn.
[16]  Chức của quan thái giám.
[17]  Chức của quan thái giám.
[18]  Chức các vị hầu hạ trong cung.
[19]  Chức các vị hầu hạ trong cung.
[20]  Năm Ất Dậu, 1885 triều Vua Hàm Nghi nguyên niên.
[21  Bia chùa Từ Hiếu – Huế
[22] Bia công chúa Ngọc Cơ ở chùa Đông Thuyền (bản chữ hán)
[23 Bia công chúa Ngọc Cơ ở chùa Đông Thuyền (bản chữ hán)
[24]  Khế ước chùa Ba La Mật (bản chữ hán)
[25] Xã Đường Anh, tổng Đường Anh. Theo Dương Văn An, Ô Châu cận lục là Đường Pha, hay Ngọc Anh, Phú Thượng.
[26] Hàm Long sơn chí (chữ Hán) tr 9-10
[27]  Chức quan làm trưởng đoàm kiểm tra những kho tàng trong nước. thường lấy các quan tứ phẩm trong các Khoa Đạo của Đô Sát Viện. Trần Thanh Tâm, sđd, tr.125, 126.
[28 Hàm Long sơn chí (chữ hán) tr. 14-15
[29 Khế ước chùa Quảng Tế (chữ Hán)

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dương văn An (1961), Ô Châu cận lục, Bùi Lương dịch, Sài Gòn “Văn Hoá Á Châu ”.
2.Dương Văn An (1997), Ô Châu cận lục, Trịnh Khắc Mạnh dịch và chú thích. Nxb KHXH Hà Nội.
3. Vĩnh Cao – Nguyễn Phố (2001), Từ Lâm Hán Việt từ điển, Nxb Thuận Hóa, Huế.
4. Thiều Chửu (1993), Hán Việt từ điển, Nxb tp Hồ Chi Minh.
5. Đoàn Trung Còn, (2005), Phật học từ điển, tái bản, 3tập, Nxb tp Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Đình Đầu (1997), Nghiên Cứu địa bạ Triều Nguyễn, Thừa Thiên, Nxb tp Hồ Chí Minh.
7. Thích Giới Hương (1994) phỏng dịch, Văn Bia chùa Huế, Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
8. Lý Kim Hoa (2003), Sưu tập và biên dịch, Châu Bản Triều Nguyễn (tư liệu Phật giáo), Nxb Văn Hoá Thông tin,Hà Nội.
9. Nguyễn Đình Hòe (1916), Chùa Diệu Đế, Những người bạn cố đô Huế thời Nguyễn, tập 3, Nxb Thuận Hóa, Huế.
10. Vũ Văn Kính (1996), Tự điển chữ nôm, Nxb Đà Nẵng.
11. Hà Xuân Liêm (2000), Những Ngôi Chùa Huế, Nxb Thuận Hoá, Huế.
12. Nội Các Triều Nguyễn, Châu Bản triều Nguyễn (Mục Lục), bản thảo viết tay; Triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (đến năm 1857), 122 tập, 18351 tờ, tư liệu đề tài khoa học cấp nhà nước, KX,DL: 94,16
13. Nội Các Triều Nguyễn (1962), Châu Bản triều Nguyễn (Mục Lục) Tập I : Triều Gia Long, Tập II : Triều Minh Mạng, Ủy Ban phiên dịch sử liệu Đại Học Huế, Viện Đại học Huế.
14. Nội Các Triều Nguyễn (2004), Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, (1993), tái bản (8 tập), Trung Tâm khoa học xã hội và nhân văn – Viện Sử học, Nxb Thuận Hoá Huế.
15. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên) (1995), Tình hình ruộng đất, kinh tế nông nghiệp và đời sống nông dân dưới thời Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
16. Trần Thanh Tâm (2000), Quan chức nhà Nguyễn, tái bản, Nxb Thuận Hóa, Huế.
17. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, 3tập, Nxb tp Hồ Chi Minh.
18.  Hàm Long Sơn Chí.
19.  Thiên Thai sơn Thuyền Tôn tự sự lục bi.
20.  Nhất Bổn Từ Quang tự phụng thủ
21. Diệu Đế tự khế.
22. Sắc tứ Từ Hiếu tự bia ký.
23. Trùng tu Từ Hiếu tự bia ký
24. Quảng Tế tự chư khế ước
25. Ba La Mật tự chư khế ước
26. Tường Vân tự chư khế ước  
27. Trưởng công chủ đệ thập tam từ đường bi ký.
28. Trưởng công chủ đệ thập tam thọ phần bi ký.

T.T.T

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here